037368266803736826680373682668037368266803736826680373682668
Thức ăn chiếm tỷ trọng tới 65-80% trong giá thành sản xuất NTTS , nhưng ngành công nghiệp thức ăn thủy sản nước ta lại hoàn toàn phụ thuộc vào các DN nước ngoài. Việc kiểm soát chất lượng và giá dường như đã vượt ra ngoài tầm tay các nhà quản lý Việt Nam?
Mất thế cạnh tranh vì giá thức ăn cao
![]() |
Năm 2012, kim ngạch XK tôm Việt Nam sụt giảm tới 6,6% so với năm 2011. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng vấn đề được đề cập nhiều nhất, bên cạnh những tổn thất do dịch bệnh gây ra, là giá thức ăn nuôi tôm cao, khiến giá thành sản xuất tôm tại Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước láng giềng. Lý do của tình trạng giá thức ăn nuôi tôm liên tục tăng một cách không minh bạch được cho là 100% thị trường thức ăn thủy sản tại Việt Nam đều do các DN vốn đầu tư nước ngoài thao túng.
Theo phản ánh của một số DN chế biến tôm XK, năm 2012 giá tôm Việt Nam XK vào thị trường Nhật Bản cao hơn tới 2-3 USD/kg so với tôm XK từ một số quốc gia khác như Thái Lan, Ấn Độ, … khiến tôm Việt Nam mất sức cạnh tranh trên thị trường. Nhưng, với chi phí thức ăn tăng cao, giá thành sản xuất tôm nguyên liệu trong nước cũng phải tăng theo, nên nếu hạ giá bán tôm thành phẩm DN chế biến sẽ bị lỗ nặng.
Không như Thái Lan hay Ấn Độ, ngành công nghiệp chế biến thức ăn thủy sản ở Việt Nam phần lớn do DN có vốn đầu tư nước ngoài nắm giữ. Phần lớn nguyên liệu cơ bản để sản xuất thức ăn như bột cá, ngô, đậu tương, các loại phụ gia, v.v… cũng phải NK, nên luôn phụ thuộc vào bên ngoài. Do đó giá thành luôn cao hơn các nước khác và chất lượng thức ăn cũng rất khó kiểm soát.
Trước tình hình thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu trong nước, nhiều DN phải chọn giải pháp nhập nguyên liệu để chế biến, nhưng quá trình thực hiện cũng gặp nhiều khó khăn vì nhà nước chủ trương không khuyến khích việc này.
“Giá thức ăn tăng cao đã đẩy giá thành nuôi tôm trong nước tăng cao, đồng thời làm cho nguồn cung tôm nguyên liệu trong nước khan hiếm và không ổn định. Để có nguồn nguyên liệu ổn định nhằm thực hiện các đơn hàng đã ký, đồng thời bảo đảm việc làm cho hàng ngàn lao động, chúng tôi phải nhập tôm nguyên liệu từ một số nước khác như Ấn Độ, Êcuađo,… là những nơi có nguồn tôm nguyên liệu ổn định, chất lượng tốt nhưng giá lại rẻ hơn tôm trong nước” - ông Lê Văn Quang, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thủy sản Minh Phú cho biết.
Mất kiểm soát cả về giá lẫn và chất lượng
Không chỉ làm đội chi phí sản xuất, việc giá thức ăn thủy sản tăng liên tục còn sinh ra nhiều hệ lụy khác, ảnh hưởng đến uy tín của thủy sản Việt Nam trên thị trường.
Một vị lãnh đạo Hội Nghề cá Việt Nam, cho biết: “Các DN có vốn đầu tư nước ngoài đã chi phối ngành công nghiệp chế biến thức ăn thủy sản, đẩy chi phí sản xuất lên cao, làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. Cùng với đó, DN rất khó kiểm soát chất lượng sản phẩm, dẫn tới dễ vi phạm hàng rào kỹ thuật về chất lượng và ATTP khi XK.”
Với thế mạnh về trang thiết bị, công nghệ, đặc biệt là nguồn tài chính vững mạnh, các DN có vốn đầu tư nước ngoài hầu như chi phối hoàn toàn ngành sản xuất thức ăn tôm và tới 65%-70% thị phần thức ăn cho cá tra. Nhờ đó, họ hoàn toàn có thể kiểm soát xu hướng nâng giá thức ăn thủy sản trên thị trường.
Các DN FDI rất biết cách tăng giá bán đúng luật và thường hùa với nhau cùng tăng giá, với chiêu thức tăng thành nhiều đợt trong năm và mỗi năm chỉ tăng tổng cộng khoảng 30%-35% mà không quá 50% nên không bị phạt. Họ cũng lựa những thời điểm tăng giá xăng dầu, điện… để tăng theo, buộc khách hàng phải chấp nhận. Hơn nữa, nếu người nuôi không chấp nhận mua hàng của họ thì cũng chẳng biết mua ở đâu có giá rẻ hơn để nuôi.
Lấy lý do giá NK nguyên liệu đầu vào tăng, các DN chế biến thức ăn luôn kêu ca, nếu không tăng giá bán sẽ bị lỗ. Nhưng khi giá nguyên liệu giảm thì không thấy họ giảm giá. Theo thống kê, trong năm 2012 giá các loại thức ăn thủy sản tăng tổng cộng khoảng 30% với 6-7 lần tăng, trung bình cứ 2 tháng điều chỉnh tăng giá bán 1 lần, nhưng không thấy lần giảm giá nào.
Mặc dù theo quy định, việc kiểm soát giá thức ăn thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý, nhưng trong thời gian qua dường như các cơ quan này đã lãng quên nhiệm vụ này. DN và người nuôi có lên tiếng phản ánh đến mấy về tình trạng tăng giá thức ăn nuôi thủy sản một cách bất hợp lý như trên cũng chẳng thấy cơ quan nào có hành động.
Ngược với chiều lên của giá, chất lượng thức ăn có xu hướng ngày càng đi xuống. Các loại thức ăn có chất lượng kém xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường, chiếm trung bình khoảng 20%. Với lý do giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, nhà chế biến thức ăn đã cắt giảm tối đa các thành phần quan trọng, hoặc thay thế bằng những thành phần kém giá trị dinh dưỡng, khiến vật nuôi chậm lớn, thời gian nuôi kéo dài, hệ số thức ăn cao, giá thành sản xuất cũng tăng theo.
Cùng với đó, quá trình phân phối thức ăn trải qua quá nhiều tầng lớp trung gian đã làm suy giảm chất lượng và tăng giá thành. Để cạnh tranh thị phần, các DN sản xuất thức ăn đã mạnh tay chiết khấu cho những người phân phối, nhiều khi lên tới 20-30% giá bán. Ngoài ra, với cách quản lý, kiểm soát chất lượng thức ăn của cơ quản lý chất lượng như hiện nay cũng có thể làm phát sinh một số tiêu cực, tạo cơ hội cho thức ăn không đạt chất lượng lưu thông trên thị trường.

Tăng cường liên kết, hạn chế trung gian
Trước những diễn biến rất bất lợi về giá cũng như chất lượng thức ăn thủy sản, nhiều DN đã lựa chọn phương án tự khép kín chuỗi sản xuất, gồm cả khâu chế biến thức ăn tự cung cấp cho vùng nuôi của mình. Hàng loạt DN lớn như Minh Phú, Hùng Vương, Vĩnh Hoàn, Gò Đàng, Hoàng Long,… đã có vùng nuôi đủ khả năng tự cung cấp phần lớn nguyên liệu cho chế biến và có nhà máy chế biến thức ăn thủy sản để tự cung cấp cho các vùng nuôi đó.
Việc DN tự xây dựng nhà máy sản xuất thức ăn sẽ mang đến rất nhiều lợi ích, giá thành và chất lượng thức ăn sẽ được kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm các tiêu chuẩn VSATTP và truy xuất nguồn gốc. Tuy nhiên, cái khó của nó là vấn đề vốn đầu tư và nguồn lực quản lý, nên chỉ số ít DN lớn mới đủ tiềm lực thực hiện.
Hiện tại, các nhà sản xuất thức ăn thủy sản tính chiết khấu khá cao, ở mức trung bình khoảng 20% cho các đại lý trung gian. Do đó, nếu các hộ nuôi nhỏ lẻ liên kết với nhau thành các hội, hiệp hội, hợp tác xã sản xuất để giao dịch trực tiếp, mua với số lượng lớn không qua trung gian thì có thể giảm được những chi phí trung gian đó. Một hình thức khác đang được thực hiện là DN chế biến hợp đồng với người nuôi để thu mua nguyên liệu, đồng thời hợp đồng với công ty thức ăn để cung cấp cho người nuôi, tạo thành mối liên kết 3 bên, thậm chí 4 bên với sự tham gia của ngân hàng. Cách làm này bảo đảm được lợi ích của cả các bên, DN thức ăn có đầu ra với tiến độ ổn định, người nuôi được cung cấp thức ăn với giá hợp lý và DN chế biến có nguồn cung nguyên liệu.
Bên cạnh nỗ lực của DN và người nuôi thủy sản, các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải thể hiện vai trò chủ đạo trong công tác quản lý giá và chất lượng thức ăn thủy sản. Trước hết cần rà soát lại hoạt động của tất cả các nhà máy chế biến thức ăn, đánh giá chất lượng sản phẩm, xác định giá mức giá thành hợp giá căn cứ vào giá các loại nguyên liệu đầu vào và các loại chí phí khác,… Đó cũng là cơ sở xem xét cho phép khi DN có yêu cầu điều chỉnh giá. Thực hiện hoạt động kiểm soát chất lượng và giá thức ăn nuôi thủy sản một cách thường xuyên, không phải là theo từng chiến dịch, đổi mới cách thức quản lý, kịp thời nắm bắt xu thế mới của thị trường, loại trừ các hành vi tiêu cực, không để các loại thức ăn kém chất lượng có cơ hội xuất hiện trên thị trường.