037368266803736826680373682668037368266803736826680373682668
Báo Nông nghiệp Việt Nam số ra ngày 25/1/2013 đưatin: Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Nông Lâm nghiệp Thành Tây(Trường ĐH Thành Tây, Hà Nội) công bố kết quả khảo nghiệm thành công tại tỉnh Hòa Bình haigiống khoai lang cho năng suất "khủng".
Đó là giống Hà Nam Vương và giống Quảng Đông 1, cácgiống này mới du nhập vào Việt Nam hồi tháng 7 năm 2012. Tại các diện tích trồng thửnghiệm vụ đầu tiên ở xã Cư Yên (huyện Lương Sơn, Hòa Bình) đã thấy:
- Khoai Hà Nam Vương mỗi gốc cho từ 4-6 củ, gốc nhiều có thể cho10-12 củ; khối lượng củ trung bình từ 400-500g/củ, tối đa lên tới 1,45kg/củ; khối lượng củ trungbình/gốc từ 2-2,5kg. Như vậy, với mật độ trồng từ 35-40 nghìn gốc/ha, nếu trồng đạt yêu cầu kỹthuật, giống khoai lang Hà Nam Vương có khả năng cho năng suất thực tế từ 75-80 tấn/ha, năng suấttiềm năng có thể tới 130 tấn/ha.
- Khoai Quảng Đông 1 mỗi gốc cho 5 củ, gốc nhiều có 8-10 củ, khốilượng củ trung bình 300-400g, khối lượng củ tối đa lên tới 1,1kg; khối lượng củ trung bình/gốc đạt0,8kg. Về lí thuyết, với mật độ trồng từ 35-40 nghìn gốc/ha, giống có khả năng cho năng suất thựctế 30-35 tấn/ha, năng suất tiềm năng có thể lên tới 40-50 tấn/ha.
So với năng suất của các giống khoai lang địa phương hiện nay ở vùngđồng bằng sông Hồng khoảng từ 7-9 tấn/ha, giống khoai lang Hà Nam Vương có khả năng cho năng suấtcao gấp 8-10 lần, còn giống Quảng Đông 1 cho năng suất cao gấp 4-5 lần.
Giống Hà Nam Vương là giống khoai lang trắng, hàm lượng tinh bột cao(28%), chủ yếu dùng để chế biến tinh bột, còn giống Quảng Đông 1 là giống khoai ruột vàng, củ dẻo,thích hợp với thực phẩm cung cấp năng lượng và bổ sung tiền vitamin A cho người và động vậtnuôi.
Được biết, Mozambique, một nước nghèo ở châu Phi, người ta kiểm soátbệnh truyền nhiễm và tỷ lệ tử vong của trẻ nhỏ bằng chương trình vận động các hộ nông dân trồngkhoai lang ruột vàng và cho trẻ ăn khoai này. Kết quả là sau 2 năm thực hiện chương trình, diệntích trồng khoai lang ruột vàng của mỗi hộ tham gia chương trình đã tăng từ 33m2 lên359m2 và hàm lượng vitamin A trẻ tiêu thụ hàng ngày đã tăng lên hơn 7 lần, hàm lượngvitamin A huyết thanh cũng tăng lên (tăng 0,100micromol/lit), nhờ vậy sức đề kháng của trẻ đượctăng cường, bệnh truyền nhiễm và tỷ lệ chết của trẻ giảm đi.
Những thông tin trên là tin vui không những cho ngành chế biến tinhbột mà cũng là tin vui cho ngành chăn nuôi của Việt Nam. Diện tích trồng khoai lang của Việt Namước khoảng trên 20 vạn ha với sản lượng hàng năm đạt khoảng 1,6-1,7 triệu tấn. Cũng với diện tíchnày, nếu giống khoai lang Hà Nam Vương được đưa vào chỉ với tỷ lệ 50% tổng diện tích khoai langhiện có thì sản lượng khoai hàng năm có thể tăng lên 9-10 triệu tấn.

Theo Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (dẫn theo Peter,2004) thì Việt Nam là nước đứng thứ hai thế giới về sản lượng khoai lang; ở miền Bắc và miềnTrung Việt Nam khoảng 70-80% sản luợng khoai lang sản xuất ra được dùng cho chăn nuôi lợn, phần cònlại được tiêu thụ tại gia đình hoặc bán ở chợ.
Như vậy, giống khoai lang mới mở ra triển vọng rất to lớn choviệc tăng sản lượng thức ăn cho chăn nuôi, giảm sức ép sử dụng ngũ cốc như ngô, mì, từ đó tạo cơhội giảm mạnh giá thành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi nông hộ.
Cần nói thêm rằng khoai lang là sản phẩm trồng trọt được dùng phổbiến cho chăn nuôi ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Philippines, Uganda, Papua NewGuinea, Indonesia. Trung Quốc là nước có sản lượng khoai lang lớn nhất thế giới và có tới 40% sảnlượng khoai dùng vào chăn nuôi lợn.
Khoai lang củ tuy nghèo protein (khoai lang tươi có 1,6% protein,khoai lang khô có 5-6% protein, cứ 3,5kg khoai tươi cho 1kg khoai khô), nhưng giầu tinh bột cho nênlà nguồn năng lượng quan trọng trong khẩu phần của lợn. Cứ 1kg khoai khô có khoảng 3.300kcal ME,cao hơn năng lượng của một 1kg thóc tẻ (bảng 1).
Tinh bột của khoai lang có nhược điểm là kháng lại với sự thủyphân của enzyme amylase, một enzyme phân giải tinh bột. Tuy nhiên khi nấu chín thì khắc phục đượcnhược điểm này: tỷ lệ tinh bột có thể thủy phân được tăng từ 4% lên 55% (Cerning-Beroard &Le Dividich, 1976, dẫn theo Dominguez).
Khoai lang cũng chứa một chất kháng dinh dưỡng, đó là chấtkháng lại enzyme trypsin, một enzyme tiêu hóa protein. Tuy nhiên nếu khoai được nấu chín thìchất kháng dinh dưỡng này cũng bị phân hủy. Để tăng khả năng thủy phân tinh bột cũng như loạibỏ chất kháng dinh dưỡng của khoai lang củ, ngoài nấu chín, người ta còn có thể thái lát phơi khôhay nghiền và tạo thành bột khô. Cũng có một phương pháp chế biến đơn giản khác là ủ chua (xem cuốibài).
Bảng 1: Thành phần hoá học của khoa lang tươi và khô*
|
Thành phần hóa học |
Củ khoai lang tươi |
Khoai lang khô (3,5kg tuơi cho 1kg khô) |
Thóc tẻ |
|
Chất khô (%) ME kcal/kg/lợn Protein (%) Chất béo (%) Carbohydrate (%) Xơ thô (g) Canxi (g) Photpho (g) Hàm lượng vi khoáng** Sắt (mg) Kẽm (mg) Đồng (mg) Mangan (mg) Selen (mcg)
|
30,54 1123 1,54 0,33 27,04 0,88 0,03 0,07
0,61 0,30 0,15 0,26 0,60 |
88,0 3294 4,51 0,96 79,3 2,58 0,11 0,20
2,31 0,88 0,44 0,76 1,76 |
88,91 2636 7,56 1,73 63,54 11,99 0,30 0,27
4,31 1,09 0,22 1,09 15,1
|
(* Nguồn: Lã Văn Kính,2003 **http://en.wikipedia.org/wiki/Sweet_potato)
Bù đắp lại sự thiếu hụt protein trong củ, dây lá khoai lang lại lànguồn protein quan trọng. Một kg dây lá khoai tươi có 27g protein còn 1kg dây lá khô có tới 150gprotein (cứ 6 kg dây lá tươi cho 1kg bột dây lá khô).
Ngoài protein, các axit amin của dây lá khoai cũng rất phong phú,riêng hàm lượng lysine lên tới 6,3g/100g protein, hàm lượng lysine này còn cao hơn của hạt đỗ tương(5,6g/100g protein). Dây lá khoai còn giầu carotene, một nguồn quan trọng của vitamin A cho độngvật nuôi và giầu xantophyll, nguồn sắc chất quan trọng để tạo mầu lòng đỏ trứng và màu da gà.
Các nghiên cứu tại nước ta và nhiều nước trên thế giới cho thấykhoai lang củ và dây lá khoai lang hoàn toàn có thể thay thế ngô hay các hạt cốc khác trong chănnuôi lợn hay gà.
Một nghiên cứu trên lợn nuôi thịt thực hiện tại Tổ hợp Nghiên cứuICAR, Umiam, Megghalaya, Ấn Độ cho biết với khẩu phần 60% hỗn hợp thức ăn tinh (24% protein) và 40%khoai lang nấu chín, hay khẩu phần 40% hỗn hợp thức ăn tinh (34% protein) và 60% khoai lang nấuchín, lợn đã cho tăng trọng và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR: kg TA/kg tăng trọng ) tốt hơn làkhẩu phần hỗn hợp thức ăn tinh không chứa khoai lang nấu chín (bảng 2).
Với khoai lang nấu chín, nếu khẩu phần được cân đối bằng những nguồnprotein tốt như khô đỗ tương hay nấm men thì tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn hoàntoàn có thể cải thiện khi hàm lượng protein của khoai lang trong khẩu phần cao đến mức30-40% (bảng 3).
Bảng 2: Năng suất lợn thịt cho ăn khoai lang nấu chín
(Giống Hampshire x Giống địa phương, thể trọng đầu thí nghiệm19,4kg, thời gian thí nghiệm 50 ngày)
|
|
Tăng trọng (g/ngày) |
FCR |
|
100% CK* cung cấp từ TAHH tinh (16% protein), không khoai lang 60% CK cung cấp từ TAHH** tinh (24% protein) và 40% CK từ khoai lang nấu chín 40% CK cung cấp từ TAHH tinh (34% protein) và 60% CK từ khoai lang nấu chín |
385 430 420
|
3,18 3,04 3,07 |
*CK: chấtkhô ** TAHH: thức ăn hỗnhợp
(Nguồn: S.K. Naskar và cs., J. of Root Crops, Vol., 34, No.1,2008)
Bảng 3: Năng suất chăn nuôi lợn thịt (29-90kg) của khẩu phần khoailang nấu chín với các nguồn protein khác nhau
(Nguồn: Dominguez, 1990)
|
|
% của tổng protein khẩu phần |
||||
|
Khô đỗ tương Nấm men Torula Bột thịt xương |
50,9* - - |
62,9** - - |
- 62,9** - |
- 40,9** 26,5 |
- 19,1** 52,8 |
|
Thu nhận TA (CK kg/ngày) Tăng trọng (kg/ngày) FCR (CK kg/kg TT) |
2,30 0,77 3,01 |
2,71 0,77 3,51 |
2,36 0,78 3,03 |
2,30 0,78 2,95 |
2,33 0,70 3,33 |
* Khẩu đối chứng: ngô - khô đỗ tương
** Khẩu phần thí nghiệm: khoai lang nấu chín - các nguồn proteinkhác
Với dây lá khoai lang cũng có một số nghiên cứu đánh giá giá trịchăn nuôi của nó như nghiên cứu của Dominguez., năm 1990 hay của Gonzalez và cs., năm 2003. Củkhoai giàu năng lượng nhưng thiếu protein và nguồn protein và axit amin của dây lá lang có thể khắcphục hạn chế này của củ khi phối hợp hai loại thức ăn này với nhau.
Nghiên cứu của Dominguez thực hiện trên lợn 29-90kg với khẩu phần cócác mức protein khác nhau đóng góp từ protein dây lá khoai lang trên nền protein là khô đỗ tương đãthấy: protein của dây lá khoai lang có thể thay thế 25 đến 50% protein của khẩu phần khô đỗ tương.Tăng trưởng hàng ngày của lợn tuy giảm khi tăng mức protein của dây lá lang, nhưng FCR có thể chấpnhận được, nhất là khi dây lá khoai là nguồn tận dụng (bảng 4).
Bảng 4: Năng suất chăn nuôi lợn ăn khẩu phần khoai lang củ nấuchín bổ sung dây lá khoai lang
|
|
% của tổng protein khẩu phần |
|||
|
Khô đỗ tương Dây lá khoai tươi |
62,9 0 |
47,7 18,8 |
32,3 37,9 |
50,9* 0 |
|
TA thu nhận (CK kg/ngày) Tăng trọng (kg/ngày) FCR (CK kg/kg tăng trọng) TA tiêu thụ (kg/kg tăng trọng) - Ngô - Khô đỗ tương - Khoai củ nấu chin - Dây lá khoai |
2,71 0,77 3,51
- 0,72 9,5 - |
2,46 0,69 3,55
- 0,54 8,60 2,40 |
2,46 0,64 3,81
- 0,39 8,10 5,10 |
2,30 0,77 3,01
2,80 0,54 - - |
* Khẩu phần đối chứng (Nguồn Dominguez,1990)
Nghiên cứu của Gonzalez thực hiện trên lợn từ 29 - 90kg với hai pha:Ở pha 1 (30-60kg), lợn ăn 5 khẩu phần với các mức protein là 25,1; 23,7; 17,0; 13,2 và 17,7% (khẩuphần 17,7% protein là khẩu phần đối chứng). Ở pha 2 (60 - 90kg), lợn cũng được ăn 5 khẩu phần vớicác mức protein là 23,0; 20,6; 14,5; 9,9 và 12,4% (khẩu phần 12,4% protein là khẩu phần đốichứng).
Lượng thức ăn hỗn hợp ở pha 1 và pha 2 lần lượt là 1,6kg/ngày và1,8kg/ngày. Với các lô thí nghiệm ngoài thức ăn hỗn hợp, lợn được ăn dây lá khoai lang với phươngthức ăn tự do (ad libitum), với lô đối chứng lợn chỉ được ăn hỗn hợp tinh không có dây lang. Kếtquả nghiên nghiên (bảng 5&6) cho thấy năng suất chăn nuôi lợn có thể đạt mức cao khi cho ăn tựdo dây lá lang được bổ sung khẩu phần có mức protein 23,7 và 20,6% ở pha 1 hay 17,0 và 14,5% ở pha2.
Bảng 5: Năng suất chăn nuôi của lợn pha 1 (30-60kg) cho ăn dây lálang
(Nguồn: C. Gonzalez et al., 2003)
|
|
Protein thô % |
||||
|
Đối chứng |
25,1 |
23,7 |
17,0 |
13,2 |
|
|
Thức ăn tiêu thụ (kg CK/ngày) TAHH tinh Dây lá lang Tổng Tăng trọng (g/ngày) FCR Ngày thí nghiệm |
1,97 - 1,97a 779a 2,52b 39
|
1,43 0,16 1,59b 719a 2,23c 42 |
1,39 0,16 1,55b 712a 2.15c 43 |
1,40 0,13 1,53b 685ab 2,24c 45 |
1,44 0,29 1,73ab 597b 2,89a 51 |
Các chữ khác nhau trong cùng một hàng biểu thị sự sai khác có ýnghĩa thống kê với P<0.05
Các nghiên cứu của Việt Nam trong những năm gần đây đối với việc sửdụng củ hay dây lá khoai lang cho lợn là các nghiên cứu về ủ chua củ hoặc dây lá. Với kỹ thuật chếbiến này giá trị dinh dưỡng của sản phẩm được tăng cao, chất kháng dinh dưỡng bị loại bỏ, khôngphải đun nấu vừa tiết kiệm lao động, vừa giảm chi phí chất đốt lại bảo quản thức ăn được vài batháng.
Các thí nghiệm so sánh nuôi lợn bằng khoai lang củ nấu chín, khoailang củ ủ chua với cám gạo (79,5% củ + 20% cám) hay với phân gà phơi khô (79,5% củ + 20% phân gà)đã thấy tăng trưởng của lợn ăn khoai lang củ ủ chua cao hơn của lợn ăn khoai lang củ nấu chín (bảng7). Với dây lá lang ủ chua, tăng trưởng của lợn cũng cao hơn dây lá lang cho ăn tươi, đặc biệt chiphí thức ăn cho 1kg tăng trọng giảm được 2.000đồng (bảng 8).
Bảng 6: Năng suất chăn nuôi của lợn pha 2 (60-90kg) cho ăn tự do dâylá lang
(Nguồn: C. Gonzalez et al., 2003)
|
|
Protein thô % |
||||
|
Đối chứng |
23,0 |
20,6 |
14,5 |
9,9 |
|
|
Thức ăn tiêu thụ (kg CK/ngày) TAHH tinh Dây lá lang Tổng Tăng trọng (g/ngày) FCR Ngày thí nghiệm |
2,34a - 2,34 772a 3,03a 38a |
1,45b 0,66a 2,11 708a 2,98ab 42 |
1,48b 0,44b 1,92 741a 2,59b 40 |
1,49b 0,41b 1,90 739a 2,57b 40 |
1,50b 0,66a 2,16 642b 3,38a 46 |
Các chữ khác nhau trong cùng một hàng biểu thị sự sai khác có ýnghĩa thống kê với P<0.05
Bảng 7: Năng suất chăn nuôi lợn nuôi bằng khoai lang củ nấu chín vàủ chua
(Nguồn: Dẫn theo D. Peters, CIAT, 2004)
|
|
100% khoai củ tươi nấu chín |
79,5 khoai củ, 20% cám gạo, ủ chua |
79,5 khoai củ, 20% phân gà, ủ chua |
|
Thể trọng đầu thí nghiệm (kg) Thể trọng cuối thí nghiệm (kg) Tổng tăng trọng (kg) Tăng trọng (g/ngày) Chi phí (vnđ/kg tăng trọng)
|
21,75 70,96 49,21 552 6724 |
22,96 76,82 53,86 605 7354 |
21,89 78,93 57,04 640 6767 |
Bảng 8: Năng suất chăn nuôi lợn nuôi bằng dây lá khoai tươi và ủchua
(Nguồn: Dẫn theo D. Peters, CIAT, 2004)
|
|
100% dây lá tươi nấu chín |
93,5% dây lá, 6% bột lá sắn, 0,5% muối, ủ chua |
83,5% dây lá, 6% bột lá sắn, 10% phân gà, 0,5% muối, ủ chua |
|
Thể trọng đầu thí nghiệm (kg) Thể trọng cuối thí nghiệm (kg) Tổng tăng trọng (kg) Tăng trọng g/ngày Chi phí (vnđ/kg tăng trọng)
|
20,35 60,40 40,05 431 10784
|
20,75 66,10 45,35 488 8875 |
21,85 73,40 51,55 554 7383 |
Kết luận
Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy khoai lang và phụ phẩm của nó(dây, lá) là nguồn thức ăn tốt cho lợn. Khoai lang không chỉ được sử dụng ở khu vực nông hộ mà còncó thể được sử dụng ở quy mô công nghiệp.
Ở Cuba, khoai lang được đưa vào hệ thống thức ăn lỏng (liquidfeeding), được nấu chín và được trộn với các thức ăn giầu protein khác ở dạng lỏng (1 thức ăn + 3nước) rồi được chuyển xuống chuồng nuôi lợn bằng các thiết bị tự động. Ở tỉnh Sichuan củaTrung Quốc, khoai lang cũng là nguyên liệu chủ yếu thay ngô và được tạo thành viên khô cùng với cácphụ gia cung cấp axit amin, khoáng-vitamin và đã trở thành thức ăn công nghiệp tốt nuôi lợn.
Như vậy, cần nhanh chóng đưa các giống khoai năng suất cao vào sảnxuất để có thể từng bước hình thành hệ thống chăn nuôi lợn - khoai lang ở nước ta.