037368266803736826680373682668037368266803736826680373682668
Theo ước tính, mỗi năm ngành nuôi trồng thủy sản nước ta cần khoảng 2,4 triệu tấn thức ăn. Ðể đáp ứng nguồn cung cho ngành này, 111 nhà máy chế biến TATS và 24 nhà máy chế biến thức ăn cho cá tra đã ra đời. Tuy nhiên, thị phần các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) nắm giữ cao từ 65 đến 70%, cho nên TATS liên tục bị 'làm giá', tăng bốn lần từ đầu năm đến nay, trong khi chất lượng thức ăn giảm, dẫn đến thời gian nuôi kéo dài, thiệt hại và ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất. Ðiều đáng nói là để sản xuất được khối lượng thức ăn trên, các công ty chế biến phải nhập khoảng 1,2 triệu tấn nguyên liệu/năm. Ngoài ra, do thiếu quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu và công nghiệp phụ trợ cho chế biến nên giá thức ăn luôn cao hơn 15 - 20% so với các nước trong khu vực.
Ðầu năm 2010, khi Bộ Tài chính áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu từ 0 đến 5% thay vì 0% như trước đó cho một số loại nguyên liệu như bột cá, bột thịt xương, bột mì, bột cám, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã lợi dụng cơ hội này thi nhau tăng giá TATS. Nhất là những thuận lợi về chỉ tiêu đạt được về kinh tế và các thị trường xuất khẩu trong các tháng cuối năm với những hứa hẹn người nuôi trồng thủy sản sẽ bán được giá. Do đó, không phải vô cớ mà hầu hết các công ty sản xuất TATS FDI đều đưa ra mục tiêu doanh số trong năm 2010 cao hơn 10-15% so với năm 2009.
Ngoài việc gia tăng giá cả nguyên liệu sản xuất thức ăn thì việc thuận lợi trong đầu ra của nghề nuôi trồng thủy sản trong nước cũng làm cho giá thức ăn thủy sản tăng. Nhất là việc phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu quan trọng trong quy trình sản xuất thức ăn như: bột cá, bột đậu nành, premix, chất phụ gia và các chất bổ sung khác, vô tình 'cơn bão' tăng giá TATS đổ lên đầu người nông dân. Hệ thống phân phối sản phẩm của các công ty sản xuất TATS qua nhiều đại lý cấp I, cấp II, rồi chi phí quảng cáo quá nhiều cũng góp phần đẩy giá thức ăn tăng lên khi tới tay người nuôi.
Một nguyên nhân khác dẫn đến giá TATS tăng là do ngành nông nghiệp thiếu khả năng quy hoạch phát triển các nguồn nguyên liệu thô cũng như công nghiệp phụ trợ cho chế biến. Mặc dù Việt Nam là nước nông nghiệp nhưng ngành sản xuất TATS đang gặp phải nghịch lý khi không chủ động được nguồn nguyên liệu chủ chốt có nguồn gốc từ nông nghiệp như ngô, đậu tương, thức ăn thô xanh... Với hơn một triệu ha ngô, năng suất bình quân 3,6 tấn/ha, sản lượng hơn 3,5 triệu tấn/năm nhưng các doanh nghiệp vẫn phải nhập khẩu hàng trăm nghìn tấn/năm. Các nguyên liệu khác như bột cá 60% đạm, vi khoáng, a-mi-no acid cũng trong tình trạng tương tự.
Giảm giá thành TATS trước hết phải siết chặt, giảm bớt đại lý, chi phí quảng cáo và chống các lộ phí trên đường đi. Chỉ riêng việc đóng gói bao bì, nhãn mác cho các loại thức ăn, thí dụ như túi 3 kg, túi 5 kg... cũng tốn khá nhiều chi phí. Song, biện pháp quan trọng nhất vẫn là cần phải phát triển mô hình nuôi trồng thủy sản có quy mô lớn, ký kết hợp đồng trách nhiệm giữa công ty TATS với người nuôi để sản phẩm được giao trực tiếp, không cần tốn tiền cho quảng cáo, bao bì. Thêm vào đó, phải làm sao để giải tỏa hàng nhanh khi hàng về cảng bằng hệ thống kho tàng, bến bãi nhiều, phương tiện vận chuyển hiện đại, chuyên dụng để bớt sức người, giảm phí vận chuyển...
Một giải pháp cấp thiết đó là các cơ quan nghiên cứu phải đưa ra được các phương pháp bảo quản tiên tiến để giảm xuống mức thấp nhất tổn thất sau thu hoạch đối với các loại cây nông nghiệp làm nguyên liệu sản xuất TATS. Ngoài ra, cần quy hoạch cụ thể số lượng các nhà máy TATS ở từng địa phương để có thể phát triển các nhà máy phân bổ đồng đều nhằm giảm các chi phí vận chuyển dẫn đến giảm giá thành TATS.